Sau nhiều năm xây dựng các tổ máy (8 tổ máy ) lần lượt
hoà lưới điện quốc gia:
v
Máy 1: ngày 31-12- 1988 v
Máy 5: ngày 15-01- 1993 .
v Máy 2:
ngày 04-11- 1989. v
Máy 6: ngày 29-06- 1993.
v Máy 3:
ngày 27-03-1991 v
Máy 7: ngày 07-12- 1993.
v Máy 4:
ngày 19-12-1991. v
Máy 8: ngày 04-04-1994 .
Đến ngày 27/05/1994 trạm 500kv Bắc Nam được
đưa vào vận hành.
Sau 18 năm xây dựng công trình, trong đó
có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, những người xây
dựng và vận hành nhà máy đã trải qua bao
năm tháng thăng trầm lịch sử của thời kỳ quá độ. Cho đến ngày 20/12/1994. Nhà
máy Thuỷ điện Hoà Bình đã long trọng tổ chức lễ khánh thành.
Việc hoàn thành
xây dựng và đưa vận hành công trình Thuỷ điện Hoà Bình đánh giấu một bước
phát triển mới của ngành năng lượng và
sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, đánh dấu những mức son để lại cho thế hệ
con cháu mai sau.
Công trình Thuỷ điện Hoà Bình là niềm tự hào của đội ngũ cán bộ, công nhân các ngành xây dựng, thuỷ lợi,
Năng lượng, đánh dấu sự trưởng
thành của cán bộ, công nhân Việt Nam.
Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình với những nhiệm vụ trọng tâm: chống lũ - phát điện - tới tiêu - đảm bảo
giao thông đờng thủy.
Nhiệm vụ trị thuỷ sông Hồng, chống lũ giảm nhẹ thiên
tai cho vùng đồng bằng Bắc Bộ và thủ đô Hà Nội là nhiệm vụ quan tâm hàng đầu:
Sông Đà là một nhánh lớn của sông Hồng chiếm khoảng 55% lượng nước trên hệ
thống sông Hồng. Theo thống kê
100 năm gần đây đã xảy ra những trận lũ lớn trên sông Đà như năm 1902 lực
lượng đỉnh lũ 17.700 m3/s, năm 1945 là 17.500m3/s,
năm 1971 là 18.100m3/s đã làm nhiều tuyến đê suy yếu trên diện rộng
ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ như Sơn Tây, Hải Dương ... bị hư hỏng, gây tổn
thất nặng nề về người và tài sản cho nhân dân mà nhiều năm mới xây dựng lại được.
Công trình thuỷ điện Hoà
Bình năm 1991 chính thức đưa vào tham gia cho hạ lưu sông Đà, sông Hồng, thủ đô Hà Nội. Hàng năm đã cắt trung bình 4-6 trận lũ lớn,
với lưu lượng cắt từ 1000-22.650m3/s. Đặc biệt nhà máy đã cắt trận
lũ ngày 18-8-1996 với lưu lượng đỉnh lũ 22.650m3/s, với tần suất
0,5%. Đây là trận lũ lớn xuất hiện trong vòng 50 năm trở lại đây, công trình
thuỷ điện Hoà Bình đã cắt lũ có hiệu quả mà giá trị kinh tế không thể tính bằng
tiền của được. Không chỉ cắt lũ nhà máy
còn cung cấp tới tiêu cho nửa triệu ha đất canh tác nông nghiệp của đồng bằng
Bắc Bộ và các nhu cầu sử dụng nước công nghiệp, đời sống dân sinh vùng hạ lưu
công trình: Từ khi nhà
máy Thuỷ điện Hoà Bình đi vào sản xuất, hàng năm khi bước vào mùa khô,
nhà máy đã luôn duy trì xả xuống hạ lưu với lưu lượng không nhỏ hơn 680m3/s,
vào thời kỳ đổ ải cho nông nghiệp lên tới gần 1003/s. Nhờ vậy mà các
trạm bơm có đủ nước phục vụ cho nông nghiệp gieo cấy kịp thời vụ. Đặc biệt mùa khô 1993 -1994 do hạn kéo
dài,
Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình đã phải xả hỗ trợ trên 128,5 triệu m3
nước xuống hạ lưu đảm bảo mực nước cho các trạm bơm hoạt động chống hạn đổ
ải, gieo cấy cho 0,5 triệu ha đất canh tác nông nghiệp vùng hạ lưu còn góp
phần đẩy mặn ra xa các cửa sông, nên đã tăng cường được diện tích trồng trọt
ở các vùng này.
Nhiệm vụ
đảm bảo giao thông đường thuỷ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của nhà máy Thuỷ
điện Hoà Bình: nhà máy đã đảm bảo lưu lượng nước xả xuống hạ lưu về mùa
kiệt theo quy trình không nhỏ 680m3/s và đã làm giảm được lưu lượng dòng
chảy trong mùa lũ, là do thực hiện tốt điều tiết hồ chứa. Nên đã dảm bảo giao
thông thuỷ thuận lợi, chấm dứt được tình trạng tàu bè mắc cạn trong mùa kiệt
và không an toàn trong mùa mưa lũ như
khi chưa đưa công trình Thuỷ điện Hoà Bình đi vào hoạt động.
Ngoài nhiệm vụ trọng tâm trên nhà máy còn là
điểm thăm
quan du lịch, góp phần giao lưu văn hoá, giúp cho mọi người thấy được
sự bố trí sơ đồ thiết bị rất công phu và hợp lý với hệ thống điện tự dùng luôn
đảm bảo cung cấp điện liên tục ổn định và tính
linh hoạt trong vận hành rất cao.Với
những nhiệm vụ đó nhà máy đã đạt được hiệu quả kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân: Cụ thể là ngay từ khi đưa tổ máy số Ivào vận hành tháng 12-1988 đã góp
phần quan trọng cung cấp công suất 240MW cho hệ thống lưới
điện miền Bắc, đã tháo gỡ kịp thời khó khăn
về nguồn điện do không cân đối giữa cung cầu ngay tại thời điểm lúc bấy giờ.
Sau đó tiếp tục đưa các tổ máy tiếp theo đi vào vận hành, đến năm 1994 điện năng sản xuất của
Nhà máy chiếm trên 50% tổng công suất và trên 65% tổng sản lượng điện cả nước.
Hiện nay nhà máy chiếm trên 30% tổng công suất và trên 35% sản lượng điện toàn
quốc. Tháng 4-1994 tổ máy cuối cùng đi vào vận hành, Nhà máy hoàn thiện công
suất lắp 1920MW. Lúc này đường dây 500kV Bắc Nam đi vào hoạt đông hình thành
hệ thống điện quốc gia thống nhất, chuyên tải nguồn điện chủ lực từ Thuỷ điện
Hoà Bình vào cung cấp cho các tỉnh miền Trung, miền Nam. Tính từ 31-12-1988,
khi tổ máy I đi vào vận hành cho đến tháng 12-2000, tám tổ máy Thuỷ điện Hoà
Bình đã sản xuất đạt trên 65 tỷ KWh điện. Trong đó chuyên tải vào miền Trung,
miền Nam qua hệ thống đường dây 500KV Bắc - Nam đạt gần 15 tỷ KWh điện.
Do những thành tích đã
đạt đợc từ trước đến nay nhà máy được Đảng và Nhà Nước tặng thưởng huân
chương lao động hạng ba và những bằng khen thi đua khác của Đảng bộ công
nghiệp.
No comments:
Post a Comment