Friday, September 19, 2014

Nhiệm vụ, các yêu cầu đối với bảo vệ rơ le.

1. Nhiệm vụ:
          Trong sự phát triển của các hệ thống điện lực, các thiết bị và hệ thống bảo vệ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, nó đảm bảo cho các thiết bị điện chủ yếu như máy phát điện,máy biến áp, đường dây dẫn điện trên không và cáp ngầm, thanh góp và các động cơ điện cỡ lớn....và toàn bộ hệ thống điện  làm việc an toàn, phát triển liên tục và bền vững.
          Các thiết bị bảo vệ có nhiệm vụ loại trừ càng nhanh càng tốt phần tử sự cố ra khỏi hệ thống. Nguyên nhân gây hư hỏng, sự cố đối với các  phần tử trọng hệ thống điện rất đa dạng: Do các hiện tương thiên nhiên như biến đổi thời tiết, giông bão, động đất, lũ lụt, do máy móc thiết bị hao mòn, già cỗi do nạn ngẫu nhiên, do nhầm lẫn trong thao tác của nhân việc vận hành.
          Nhanh chóng phát hiện và cách ly phần tử hư hỏng ra khỏi  hệ thống có thể ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả tai hại của sự cố,  trong đó phần lớn là các hạng ngắn mạch. Dòng điện tăng cao tại chỗ sự cố, trong các phần tử trên đường từ nguồn đến điểm ngắn mạch có thể gây ra những tác động và cơ nguy hiểm cho các phân tử nó chạy qua. Hồ quang tại cỗ ngắn mạch nếu để tồn tại lâu có thể  đốt cháy cả thiết bị và gây hoả hoạn. Ngắn mạch làm cho điện áp chỗ sự cố và khu vực lưới điện lân cận bị giảm thấp, ảnh hưởng đến sự làm việc bình thường của các hộ dùng điện. Tồi tệ hơn ngắn mạch có thể dẫn đến mất ổn định và tan dã hệ thống.
          Thiết bị tự động được dùng phổ biến nhất để bảo vệ các hệ thống điện hiện đại là các rơle với nghĩa ban đầu của nó  là phần tử làm nhiệm vụ tự động chuyển( đóng, cắt) mạch điện. Khi hệ thống rơle đã phát phát hiện đựơc các dạng hư hỏng, sự cố, người ta dùng các máy cắt để nhanh chóng loài trừ,cô lập phần tử bị sự cố ra khỏi hệ thống điện.
2. Yêu cầu:
          Để thực hiện được dùng phổ biến nhất để bảo vệ  phải thoả mãn những yêu cầu cơ bản sau đây: Tin cậy chọn lọc, tác động nhanh, nhạy.
          2.1- Tin cậy:
          Tin cậy là tính năng, đảm bảo  cho thiét bị  bảo vệ làm việc đúng, chắc chắn. Người ta phân biệt:
          -Độ tin cậy khi tác động: Đó là mức độ chắc chắn rằng rơle hoặc hệ thống rơle sẽ tác động đúng: Hay là khả năng làm việc đúng khi có sự cố xảy ra trong phạm vi đã được xác định trong nhiệm vụ bảo vệ.
          - Độ tin cậy không tác động: Là mức độ chắc chắn rằng rơle  hoặc hệ thống rơ le sẽ không làm việc sai. Hay là khả năng bảo vệ làm việc đúng  khi có sự cố xảy ra trong phạm vi đã được xác định trong nhiệm vụ bảo vệ.
          Trên thực tế, độ tin cậy có thể kiểm tra tương đối dễ dàng bằng tính toán và thực  nghiệm, còn độ tin cậy không tác động rất khó kiểm tra vì tập hợp những trạng thái vận hành và tình huống bất thường có thể dẫn đến tác động sai của bảo vệ không thể lường trước hết được.
          Để tăng độ tin cậy, nên sử dụng các rơle và hệ thống rơle có kết cấu đơn giản, chắc chắn, đã được thử thách qua thực tế sử dụng cũng như tăng cường mức độ dự phòng trong  hệ thống. Thống kế vận hành cho thấy hệ thống bảo vệ trong các hệ thống điện hiện đại có xác suất làm việc tin cậy khoảng 95-99%.
2.2 - Chọn lọc:
          Chọc lọc là khả  năng  của bảo vệ có thể  phát hiện và loại trừ đúng phần tử bị sự cố ra khỏi hệ hống. Cấu hình hệ thống điện càng phức tạp, việc đảm bảo tính chọn lọc của bảo vệ càng khó khăn.
          Theo nguyên lý làm việc, các bảo về được phân ra:
-Bảo vệ có sự chọn lọc tuyệt đối: Là những bảo vệ chỉ làm việc khi sự cố xảy ra trong một phạm vi hoàn toàn xác định, không làm nhiệm vụ dự phòng  cho bảo vệ đặt ở các phần từ lân cận.
- Bảo vệ có sự chọn lọc cân đối: Ngoài nhiệm vụ bảo vệ chính cho đối  tượng được bảo vệ còn có  thể thực hiện chức năng dự phòng cho các bảo vệ  đặt ở các phần tử  lân cận.
Để thực hiện yêu cầu về chọn lọc đối với các bảo vệ có chọn lọc tương đối, phải có sự phối  hợp giữa đặc tính làm việc của các bảo vệ lân cận nhau trong toàn hệ thống nhằm đảm bảo mức độ liên tục cung cấp điện cao nhất, hạn chế đến mức thấp nhất thời gian ngừng cung cấp điện.
         
2.3- Tác động nhanh:
Tất nhiên bảo vệ phát hiện và cách ly phần tử bị  sự cố càng nhanh càng tốt.Tuy  nhiên khi kết hợp với yêu cầu chọn lọc để thoả mãn yêu cầu tác động nhanh cần phải sử dụng những loại bảo vệ phúc tạp và đắt tiền.
Rơle  hay bảo vệ được gọi là tác động nhanh( hay còn gọi là có tốc độ cao) nếu thời gian tác động không vượt quá 50ms( 2,5 chu kỳ dao động của dòng điện tần số công nghiệp 50Hz) Rơle hay bảo vệ được gọi là tác động  tức thời nếu không thông qua khâu trễ( tạo thời gian) trong tác động của rơle. Thông thường hai  khái niệm tác động nhanh và tác động tức thời được dùng thay thế lẫn nhau để chỉ  các rơle lẫn nhau để chỉ  các rơle hoặc bảo vệ có thời  gian tác động không quá 50ms.
Ngoài  thời gian tác động của rơle, việc loại nhanh phần tử bị sự cố còn phụ thuộc vào  tốc độ thao tác của máy cắt điện. Các  máy cắt  điện tốc độ cao hiện đại có thời gian thao tác từ 20 đên 60ms ( từ 1 đến 3 chu kỳ 50Hz)  những máy cắt thông thường có thời gian thao tác không qua 5
chu  kỳ( khoảng 100 ms ở 50Hz). Như vậy  thời gian loại trừ sự cố( thời gian lam việc của bảo vệ cộng với thời gian thao tác máy cắt) khoảng từ 2 đến 8 chu kỳ ( khoảng 40 đến 160 ms 50Hz) đối  với các bảo vệ tác động nhanh.
2.4- Độ nhạy:
Độ nhạy đặc trưng cho khả năng.Cảm nhận sự cố của rơle hoặc hệ thống bảo vệ, nó được biểu diễn bằng hệ  thống độ nhạy, tức tỉ số giữa trị  số của đại lượng vật lý đặt vào rơle có sự cố với ngưỡng tác động của nó. Sự sai khác giữa trị số đại lượng vật lý đặt vào rơle và ngưỡng tác động của nó càng lớn, rơle càng dễ cảm nhận sự xuất hiện cuả sự cố, hay ta thường  nói rơle tác động càng nhạy.
Độ nhạy thực tế của bảo vệ phụ  thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất phải kể đến: Chế độ làm việc của hệ thống( mức huy động nguồn) cấu hình của lưới điện, dạng ngắn  mạch và vị trí điểm ngắn mạch, nguyên lý làm việc của rơle, đặc tính của quá trình quá độ trong hệ thống điện vv...
Tuỳ theo vai trò của bảo vệ mà yêu cầu về độ nhạy đối với nó cũng khác nhau. Các bảo vệ chính thường yêu cần phải có hệ số độ nhạy trong khoảng từ 1,5 đến 2, còn các bảo vệ dự phòng từ 1,2 đến 1,5
2.5. Tính kinh tế.
          Các BVRL phải thoả mãn các yêu  cầu kỹ thuật, đồng thời phải được lắp đặt sao cho rẻ nhất đến mức có thể. Đối với mạng cao áp và siêu cao áp chi phí cho trang thiết bị lắp đặt BVRL chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ chi phí của công trình, do đại đa số thiết bị ở mạng cao áp đều rất đắt nên không đòi hỏi cao về yêu cầu kinh tế. Còn trong mạng trung áp và  hạ  áp số lượng các thiết bị cần được bảo vệ rất lớn, mức độ yêu cầu bảo vệ không cao do đó cần phải tính đến kinh tế lựa chọn sơ đồ và trang thiết bị BVRL sao cho vừa đảm bảo tính kinh tế vừa có chi phí thấp nhất.

          Nhận xét: 5 yêu  cầu trên thường mâu thuẫn lẫn nhau,do đó cần dung hoà các yêu  cầu ở mức độ tốt nhất trong việc tính toán lựa chọn sơ đồ và thiết bị bảo vệ. 

No comments:

Post a Comment